Lập trường chính trị Trung_Quốc_Quốc_dân_Đảng

Chủ trương chính trị

  • Cương lĩnh chính trị của Trung Quốc Đồng minh Hội là "xua đuổi Thác Lỗ, khôi phục Trung Hoa, sáng lập Dân Quốc, bình quân địa quyền".[26]
  • Năm 1912, cương lĩnh của Quốc dân Đảng trong điều 5 có ghi: (một) duy trì thống nhất chính trị, (hai) phát triển chính trị địa phương, (ba) thi hành nghiêm chỉnh đồng hóa chủng tộc, (bốn) thông qua chính sách dân sinh và (năm) duy trì hòa bình quốc tế.
  • Trung Hoa Cách mệnh Đảng lấy tôn chỉ là thảo phạt Viên Thế Khải, "thực thi chủ nghĩa dân quyền, dân sinh", lấy mục đích là "tiêu diệt thống trị chuyên chế, kiến thiết dân quốc hoàn toàn".
  • Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất Trung Quốc Quốc dân Đảng tuyên bố, chủ nghĩa của Quốc dân Đảng tức là chủ nghĩa Tam Dân (dân tộc, dân quyền, dân sinh). Phục hưng văn hóa Trung Hoa, giữ chặt đội ngũ dân chủ.
  • Theo đuổi Trung Hoa Dân Quốc tự do, dân chủ, bình đẳng của cải và thống nhất, phản đối chủ nghĩa cộng sản, phản đối phân liệt lãnh thổ quốc gia.
  • Kiên trì nguyên tắc Nhận thức chung 1992, chủ trương một nước Trung Quốc, các bên tự diễn giải.

Lập trường hai bờ

  • Thời kỳ Tưởng Giới Thạch: Chủ trương dùng vũ lực tiêu diệt "ngụy chính quyền" Đảng Cộng sản Trung Quốc (tức nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), sau đó thu phục lãnh thổ Đại lục, "giải cứu" đồng bào Đại lục.
  • Thời kỳ Tưởng Kinh Quốc: Ban đầu vẫn duy trì chủ trương dùng vũ lực "phản công Đại lục", sau đó đề xuất chính sách cụ thể "chủ nghĩa Tam Dân thống nhất Trung Quốc".
  • Thời kỳ Lý Đăng Huy: Thiết lập Ủy ban Thống nhất Quốc gia, Ủy ban Đại lục và Quỹ Giao lưu Eo biển của Hành chính viện, đồng thời xác định Cương lĩnh Thống nhất quốc gia, lấy "thống nhất hòa bình" làm chính sách, chủ trương không nóng vội, đề xuất "lưỡng quốc luận" về "quan hệ đặc thù giữa hai quốc gia".
  • Thời kỳ Liên Chiến: Lấy Nhận thức chung 1992 là "một Trung Quốc, mỗi bên tự diễn giải" để xúc tiến phát triển "Quốc-Cộng hòa giải, quan hệ hai bờ phát triển hòa bình"
  • Thời kỳ Mã Anh Cửu, Ngô Bá Hùng: Tiếp tục lấy Nhận thức chung 1992 để xúc tiến quan hệ hai bờ phát triển hòa bình. Nhấn mạnh Trung Hoa Dân Quốc từ năm 1912 trở đi là quốc gia độc lập về chủ quyền[27]. Sau khi Quốc dân Đảng quay lại cầm quyền, chủ trương không thống nhất, không độc lập, không dùng vũ lực, liên kết chủ trương ba không này với hiện trạng.
  • Thời kỳ Chu Lập Luân: Giải thích Nhận thức chung 1992 là "Hai bờ cùng thuộc một nước Trung Quốc, song định nghĩa nội hàm có chút bất đồng", có khác biệt với "một nước Trung Quốc, các bên tự diễn giải" của Mã Anh Cửu, ứng với cách nói của Tập Cận Bình rằng Nhận thức chung 1992 có cốt lõi là "Cùng nhận thức Đại lục và Đài Loan cùng thuộc một nước Trung Quốc.。[28][29][30][31][32][33]
  • Thời kỳ Hồng Tú Trụ: Trong quá khứ từng ủng hộ "nhất Trung đồng biểu", dùng "toàn thể Trung Quốc" tăng cường cho "một nước Trung Quốc", "hai bờ đều là bộ phận của toàn thể Trung Quốc, tuyên bố chủ quyền trùng khớp, quyền lực chính trị độc lập". Quan hệ hai bờ không phải là "quan hệ quốc tế", mà là "quan hệ nội bộ" của "toàn thể Trung Quốc". Về sau đổi thành "Nhận thức chung 1992, ba nội hàm" tức "đối diện với việc Trung Hoa Dân Quốc thực sự tồn tại, bảo vệ Trung Hoa Dân Quốc phản đối Đài Loan độc lập, hy vọng hai bờ eo biển lập ra hiệp định hòa bình ổn định lâu dài".[34]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Trung_Quốc_Quốc_dân_Đảng http://www.guancha.cn/local/2016_03_29_355403_s.sh... http://www.chinanews.com/tw/2016/05-07/7861863.sht... http://www.economist.com/printedition/displayStory... http://www.etaiwannews.com/etn/news_content.php?id... http://taiwan.huanqiu.com/news/2010-05/800047.html http://www.lihpao.com/?action-viewnews-itemid-8074... http://www.nownews.com/n/2015/05/04/1683828 http://www.scmp.com/news/china/policies-politics/a... http://www.taipeitimes.com/News/editorials/archive... http://www.taipeitimes.com/News/front/archives/200...